Thursday, June 30, 2016

Giám đốc Sở GTVT: Hà Nội sẽ chỉ cấm đi chứ không cấm mua xe máy

"Khi nói đến cấm phương tiện giao thông cá nhân người ta thường hiểu cấm mua, cấm sở hữu, như vậy là không đúng. Chúng ta chỉ hạn chế phương tiện tham gia giao thông tại các khu vực cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo", Giám đốc Sở GTVT Hà Nội nói.
Trước luồng dư luận khác nhau về việc Hà Nội đang xây dựng kế hoạch để cấm xe máy hoạt động trong nội đô vào năm 2025, chiều 29/6, lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội đã chủ động mời các cơ quan báo chí đến để gặp gỡ, trao đổi về chủ trương này.
Tại buổi trao đổi, Giám đốc Sở GTVT Hà Nội Vũ Văn Viện cho biết, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ 16, có đề cập đến Chương trình phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông, đảm bảo vệ sinh môi trường, xây dựng Hà Nội phát triển nhanh, bền vững. Khi đưa chương trình ra thảo luận, các đại biểu đã thống nhất là phải có lộ trình giảm phương tiện giao thông cá nhân, tiến tới cấm xe máy vào năm 2025 để đảm bảo đô thị văn minh.
Cảnh ùn tắc trên đường phố Hà Nội.
Theo lãnh đạo Sở GTVT, khi xây dựng lộ trình giảm phương tiện giao thông cá nhân và tiến tới cấm xe máy vào năm 2025, Sở GTVT không học và áp dụng một cách máy móc của các nước, mà việc xây dựng đề án là vì Hà Nội hiện nay đang đứng trước nguy cơ ùn tắc giao thông rất lớn, do phương tiện giao thông cá nhân tăng rất nhanh.
Hiện thành phố đang đứng trước nguy cơ ùn tắc giao thông rất lớn với xe cá nhân tăng nhanh. Thành phố hiện có 5,5 triệu xe cá nhân, trong đó 500.000 ôtô, hơn 5 triệu xe máy và với tốc độ tăng bình quân 10%/năm, dự báo đến năm 2025 có khoảng 11 triệu xe máy. Lượng xe máy lớn không chỉ gây ùn tắc giao thông mà còn ảnh hưởng đến môi trường.
Chính vì vậy, lãnh đạo TP Hà Nội đã giao Sở GTVT xây dựng đề án tăng cường quản lý phương tiện giao thông cá nhân nhằm giảm ùn tắc trên địa bàn, dự kiến hoàn thành vào tháng 12/2016. Một trong những mục tiêu của đề án là hạn chế phương tiện cá nhân tiến tới cấm xe máy tại một số tuyến phố nội đô.
“Việc giảm xe cá nhân, tiến tới cấm xe máy hoạt động ở nội thành là xu thế tất yếu. Việc này Thủ tướng đã có chủ trương giao cho các thành phố lớn như Hà Nội và TP HCM phải xây dựng lộ trình. Hà Nội cũng đã quyết tâm đưa ra lộ trình như vậy”, Giám đốc Sở GTVT Hà Nội nói.
Theo Giám đốc Sở GTVT Hà Nội, các giải pháp đưa ra không nhằm hạn chế việc sở hữu phương tiện giao thông cá nhân mà chỉ nhằm kiểm soát việc gia tăng phương tiện tham gia giao thông cho phù hợp với điều kiện cơ sở hạ tầng nhằm giảm ùn tắc giao thông.
“Khi nói đến cấm phương tiện giao thông cá nhân người ta thường hiểu cấm mua, cấm sở hữu, như vậy là không đúng. Chúng ta chỉ hạn chế phương tiện tham gia giao thông tại các khu vực cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo. Ở đây, Hà Nội không cấm nhân dân mua, sở hữu ô tô, xe máy để đi ở những tuyến phố không cấm”, Giám đốc Sở GTVT Hà Nội nói.
Lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội cho biết, để hạn chế phương tiện giao thông cá nhân và tiến tới cấm xe máy, Hà Nội phải đảm bảo các điều kiện đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, trong đó phương tiện vận tải hành khách công cộng phải bổ sung tương ứng lượng phương tiện giao thông cá nhân bị hạn chế. 
Theo tính toán của Sở GTVT Hà Nội, đến năm 2025, Hà Nội cũng sẽ cơ bản đầu tư xong hạ tầng khung như các tuyến đường vành đai, xuyên tâm và hoàn thiện 8 tuyến đường sắt đô thị.
"Đến năm 2020, phương tiện vận tải hành khách công cộng trên địa bàn Hà Nội phải đáp ứng được 20% nhu cầu đi lại của nhân dân; đến năm 2025 đáp ứng được 30-40%", lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội cho biết.
Trước đó, tại hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội sáng 27/6, lần đầu tiên nội dung hạn chế phương tiện cá nhân có lộ trình cụ thể, hướng tới mục tiêu phát triển đồng bộ, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị. Theo đó, Hà Nội định hướng đến 2025 sẽ dừng hoạt động xe máy cá nhân trong nội đô.
Ngay sau đó, trao đổi với Infonet, ông Bùi Danh Liên, Chủ tịch Hiệp hội Vận tải Hà Nội hoan nghênh việc lãnh đạo TP Hà Nội nhiệm kỳ mới đã đưa ra lộ trình rất cụ thể về hạn chế phương tiện cá nhân. 
Theo ông Liên, năm 2012, ông Đinh La Thăng đưa ra đề án hạn chế xe cá nhân nhưng bị xã hội phản đối vì không có lộ trình cụ thể và không chuẩn bị dư luận xã hội, không có giải pháp kèm theo. Bây giờ, Thành ủy Hà Nội đưa ra đề án cấm xe máy là hơi chậm nhưng có còn hơn là không làm.
Còn PGS.TS Bùi Xuân Cậy khi trao đổi với phóng viên Infonet thì cho rằng, nếu giao thông công cộng phát triển thì nên hạn chế phương tiện cá nhân, có thể hạn chế bớt xe máy cho bớt ô nhiễm nhưng nếu nói cấm hoàn toàn thì rất khó.
Theo quan điểm của PGS.TS Bùi Xuân Cậy, ngay cả việc cấm xe máy trong nội đô cũng vậy. Vì không lẽ người ta có xe máy, họ không đi đến chỗ này chỗ kia?
“Tôi nghĩ là hạn chế xe máy thì cũng ủng hộ để bớt ô nhiễm nhưng liệu đến năm 2025 giao thông công cộng có phát triển hay không? Có được mấy tuyến tàu ngầm? Đến năm 2020 mới có tuyến đường sắt trên cao số 3 còn các tuyến khác phải chờ thì 10 năm nữa bao giờ mới có hệ thống giao thông hiện đại để cấm?”, PGS.TS Bùi Xuân Cậy đặt câu hỏi.
Tuấn Minh/ Info.net

Những ‘cánh tay nối dài của đảng’ cần được rút ngắn

Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
Sau khi Đại hội XII đã chỉ giải quyết được vấn đề nhân sự chủ chốt nhưng vẫn không giải quyết được bất kỳ một vấn đề trầm kha nào về kinh tế, xã hội và càng không biết làm sao để cải thiện tình trạng rỗng ruột của ngân sách, những dấu hiệu và biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên và trong hệ thống các đơn vị vệ tinh xoay quanh trục đảng vẫn tiếp tục đà gia tăng khá ấn tượng.
‘Nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ’
Trong tình hình ngân sách cạn kiệt vào nửa đầu năm 2016, một hiện tượng dư luận xã hội và truyền thông đáng chú ý đang diễn ra: những chỉ trích không tránh khỏi đối với hiệu quả hoạt động của một số tổ chức chính trị - xã hội lớn - còn có cách ví von như “cánh tay nối dài của đảng” - bao gồm các nhân tố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Nếu trước đây kinh phí dành cho các tổ chức chính trị - xã hội trên thường không được lôi ra bình phẩm, thì nay ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng bắt đầu bình luận mang màu sắc giễu cợt, châm biếm và chỉ trích.
Không phải “chỉ có” 14.000 tỷ đồng được ngân sách vung cho các tổ chức chính trị - xã hội như một số báo đài đưa tin, mà một đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) còn cho biết nguồn lực xã hội được rót vào các tổ chức công chiếm tới 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương với hơn 71.000 tỷ đồng.
Một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam bức bối: đã đến lúc các tổ chức chính trị - xã hội trên nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ.
Nhiều người đánh giá rằng so với nguồn kinh phí rất lớn nhận được hàng năm từ bầu sữa nhà nước, công sức và hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội trên bỏ ra là hoàn toàn bất tương xứng. Còn nếu nhìn từ góc độ ngân sách được cấu tạo bằng tiền đóng thuế của dân và tiền vay mượn nước ngoài mà các đời dân chúng phải nai lưng gánh chịu, sự thể còn trở nên tàn nhẫn hơn nhiều.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống - một tiếng nói bất đồng ở Việt Nam - còn nói thẳng rằng cần suy nghĩ đến việc giải thể Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Vì sao lại ra nông nỗi ấy? Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm được gì để “đoàn kết các tầng lớp trí thức và nhân dân xây dựng một đất nước phồn vinh”?
Mặt thật
Trong thực tế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã “phát huy” vai trò hiệp thương của cơ quan này đúng như tuyên bố “Dân chủ đến thế là cùng!” của Tổng Bí thư Trọng. Bằng chứng gần gũi và sống động nhất là trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 5/2016, tuyệt đại đa số các ứng cử viên độc lập đã bị loại thẳng thừng, chủ yếu qua những màn đấu tố thô bạo không khác mấy so với thời Cải cách ruộng đất cách đây đến bảy chục năm.
Thời gian tiến về trước nhưng lịch sử cứ bị kéo lui. Cũng trong cuộc bầu cử Quốc hội vừa kể, thậm chí tỷ lệ người ngoài đảng đã rớt xuống chỉ còn khoảng 4%, so với “10% theo tiêu chí”. Nghịch lý quá bất nhẫn là trong khi kinh phí dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng gấp đôi so với những năm trước, số người tự ứng cử lọt vào Quốc hội lại giảm đi phân nửa so với những kỳ bầu cử Quốc hội trước đó. Nhưng ngay cả những người “trúng cử” cũng bị dư luận coi là “gà” của các cơ quan chính quyền và hội đoàn nhà nước.
Một bằng chứng sống sượng khác: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hầu như không chia sẻ với bất kỳ tổ chức và nhân vật tôn giáo nào khác thể hiện tiếng nói và hành dộng khác với chủ ý độc trị của đảng cầm quyền. Thậm chí ngược lại, giới lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tự nguyện biến thành cánh tay đắc lực giúp cho đảng bóp nghẹt hơn quyền tự do tôn giáo của người dân - được hiến định qua các hiến pháp nhưng còn lâu mới được khẳng định trong một văn bản luật về tôn giáo.
Trong khi đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trở nên vô tích sự và phản cảm không kém. Từ khi có luật Lao động, tổ chức này đã chưa hề chủ động tổ chức một cuộc đình công hoặc lãn công nào cho công nhân, bất chấp vô số khó khăn và bất công trùm phủ lên đầu lớp công nhân vừa nghèo vừa đói cùng hàng ngàn cuộc đình công tự phát của công nhân nổ ra hàng năm.
Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để “khoanh vùng đối tượng” và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.
Từ rất nhiều năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đương nhiên trở thành một khâu trung gian hưởng ít nhất 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp. Số tiền không nhỏ này, cộng với khoản ngân sách mập mạp hàng năm, đã biến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành một gã trọc phú ngồi mát ăn bát vàng.
Chỉ đến gần đây khi chính thể Việt Nam không giấu nỗi nỗi thèm muốn Hiệp định TPP và bắt buộc phải dần chấp nhận định chế Công đoàn độc lập trong TPP, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mới có chút hơi hướng thay đổi. Tuy nhiên cho đến giờ, tổ chức này vẫn hầu như chưa từ bỏ ý muốn tự nguyện là “cánh tay nối dài của đảng”.
Hầu như tương tự, một tổ chức chính trị - xã hội khác là Hội Nông dân Việt Nam đã không hề lên tiếng trước cảnh nạn hàng triệu nông dân bị mất đất, bị cướp đất và chịu rủi ro về những bất công đất đai. Trong bối cảnh nạn trưng thu đất đai quá bất công vọt lên từ 10-20 lần, thậm chí hàng trăm lần giữa giá bán lẻ ra thị trường và giá bồi thường mỗi mét vuông đất cho nông dân, Hội Nông dân Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức chính trị - xã hội “khiếm thính” và “khiếm thị” nhất, bất chấp không khí tang tóc của lớp nông dân bị bần cùng hóa tuyệt đối đè nặng trên mọi vùng đất nước.
Còn với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, hai tổ chức này chỉ chuyên chú tổ chức công tác “vận động” những người mang tinh thần phản kháng Trung Quốc không đi biểu tình với lý do “đã có đảng và nhà nước lo”. Thậm chí, một số cán bộ đoàn - được dư luận xã hội nhận dạng - còn trở thành những nhân viên công an không sắc phục khi theo dõi, tiếp tay cho công an bắt bớ người dân yêu nước…
Tự nhiên rút ngắn
Một trong những nguồn lực lớn nhất mà các tổ chức quần chúng công sử dụng là các khoản chi cho nguồn nhân lực. Theo Tổng cục Thống kê, vào năm 2012 Việt Nam có 246.144 người làm việc cho 34.378 cơ sở của tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước đãi ngộ theo chế độ.
Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7,2% nhân lực làm việc cho nhà nước và 1,1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước tính vào khoảng 337.981 người.
Tổ chức VEPR đã tính toán với ước tính trung bình: tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công là 52.688,91 tỷ đồng, và ước tính thấp là 45.670,59 tỷ đồng. Với ước tính “lạc quan”, tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công năm 2014 ước bằng 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương 71.151,40 tỷ đồng.
Thế nhưng tình hình kinh tế hiện thời có lẽ đang ứng vào “ước tính thấp” của VEPR. Ngân sách khốn quẫn đang bị siết lại nhanh chóng và bầu sữa dành cho các tổ chức chính trị - xã hội cũng cạn kiệt nhanh không kém. Nghe nói một số nơi đã phải xài đến “quỹ đen”.
Bây giờ thì chẳng cần đến dư luận kêu gào, những cánh tay nối dài ấy vẫn tự nhiên bị rút ngắn.
Vậy họ - những cánh tay của đảng và vì đảng ấy - sẽ làm gì nếu “thất nghiệp”?
Trở về với nhân dân chăng?
Nhưng “nhân dân” nào?
Theo Phạm Chí Dũng/ VOA

Môi trường Việt Nam đang tiến đến mức không kiểm soát nổi !


Giáo sư Võ Quý, người từng nhận giải thưởng “Hành tinh xanh” năm 2003, vừa được tạp chí Time bình chọn là “Anh hùng môi trường” năm 2008 cùng 34 nhân vật là các chính khách, nghệ sĩ, nhà khoa học khắp thế giới.
Trong ngôi nhà giản dị ở một hẻm nhỏ ven đô, thay vì kể về những thành tích và giải thưởng đầy vinh quang, vị anh hùng môi trường ngồi điểm lại những… thất bại của mình! Trong suốt gần 60 năm đấu tranh không mệt mỏi cho cuộc sống trong lành hơn của con người, ông cho rằng những thất bại ấy ai cũng có thể rút ra từ đó những bài học để hành xử với thiên nhiên, con người và cộng đồng.
Hòa bình rồi, thống nhất rồi mà rừng vẫn tiếp tục bị chặt phá. Vì mưu sinh người ta phải phá rừng. Và phá rừng thì lũ lụt, hạn hán đổ xuống, mất mùa, đói kém, lại càng phá rừng, ăn vào rừng như ăn vào chính da thịt mình, ăn vào tương lai của con cháu mình.
Ngay sau đó, tôi cũng đã tổng kết những nghiên cứu, giải pháp về môi trường VN của mình và viết thành cuốn sách VN – những vấn đề về môi trường – chiến lược phát triển của đất nước. Sách được đánh giá rất cao tại Hiệp hội Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (IUCN), và tôi được bầu làm chủ tịch tiểu ban phát triển chiến lược cho các nước đang phát triển.
Nhưng đó là đánh giá của bên ngoài. Còn trong nước, tôi thấy những cố gắng của mình đôi lúc lạc lõng, thậm chí còn bị coi là “cản trở phát triển”. Những năm 1980-1990, tôi làm nhiều dự án môi trường ở miền núi, trung du, bị nhiều sự phản đối, nhất là ở Tây nguyên. Tôi và đồng sự thất bại cũng nhiều”.
Thưa GS, thất bại lớn nhất mà GS gặp phải có phải từ sự không đồng thuận trong nhận thức của chính quyền địa phương?
– Chính quyền không có cái nhìn đúng về môi trường là một thách thức. Nhưng thách thức lớn nhất là không nhận được sự ủng hộ của người dân.
Đã có những dự án tôi phải làm mất mười năm, qua ba lần thất bại, lần thứ tư mới thành công. Đó là một dự án khôi phục đất bị suy thoái ở Vĩnh Phú. Lần thứ nhất chúng tôi chọn một quả đồi làm mẫu cho dân đến xem. Trên đồi trồng rừng, dưới là những ruộng đồng mức, dưới nữa đắp đập thả cá, trông đẹp lắm.
Sau đó quay lại, tất cả cây trồng mất sạch, dân bê về nhà họ từ bao giờ. Lần thứ hai làm lại, thuê công an về trông, lại còn mất nhanh hơn. Trẻ con thả trâu bò lên đồi, công an đuổi, chúng đợi công an ngủ, lùa cả đàn trâu bò lên quần nát. Lần thứ ba chuyển địa điểm sang xã khác, không thuê công an mà nhờ các cụ phụ lão trông nom. Được vài hôm đã thấy các cụ nhắn tin kêu trả lại. Thì ra trẻ con tức tối vẽ bậy khắp các bức tường trong xóm: chúng vẽ những con chó giữ nhà. Các cụ giận dữ bảo: không làm chó giữ nhà cho các ông!
Lần thứ tư chúng tôi biết phải làm gì: mời người dân đến, thuyết trình dự án, hỏi ý kiến họ xem ai muốn tham gia, dự định trồng cây gì, bao nhiêu lâu, ký hợp đồng cụ thể, ai chịu trách nhiệm và quyền lợi đến đâu. Cuối cùng thì ổn. Và đó chính là mô hình vườn rừng đầu tiên thành công ở miền Bắc. Bây giờ nhiều người làm và làm tốt lắm rồi, nhưng để có mô hình đó chúng tôi mất đúng mười năm.
* Thưa GS, nhưng thực tế thiên tai lũ lụt đã và đang ngày càng nhiều, đó là hệ quả tất yếu của việc tàn phá môi trường. Có vẻ như các “sách lược môi trường” của GS chỉ được cộng đồng quốc tế nhìn nhận và đánh giá cao, còn trong nước thì…
– Xin được nói ngay là những thiên tai liên tiếp vừa qua như lũ quét, trận ngập lụt lịch sử ở Hà Nội… không thể gọi là thiên tai mà chính là nhân tai. Lấp hết hồ ao, lấn sông lấn ngòi thì nước thoát vào đâu mà không ngập úng. Chặt hết rừng thì lấy gì giữ nước mà không lũ quét.
Theo tôi, tình hình môi trường ở VN đang tiến đến chỗ không kiểm soát nổi. Hơn 20 năm trước, chúng tôi đã cảnh báo về ô nhiễm môi trường ở Khu công nghiệp Vĩnh Phú, đêm ngủ ở nhà ông bí thư tỉnh ủy mà mùi hóa chất cay nồng từ nhà máy super phôtphat xộc vào mũi. Tôi bảo ông bí thư: “Chúng ta và con cháu sẽ ung thư hết vì thứ này”. Nhưng ông bí thư bảo: “Đồng ruộng cần phân bón hơn, năng suất lúa thấp lắm, dân sợ đói hơn sợ ung thư”.
Hồi đó mới có khoảng vài chục nhà máy như super phôtphat, bây giờ đã hàng ngàn cái như Vedan. Luật thì có nhưng lờ mờ, dân không biết mình có quyền đòi hỏi pháp luật bảo vệ khi bị ô nhiễm môi trường, người thực thi pháp luật thì không biết hay cố tình thực hiện sai, người làm đúng thì bị uy hiếp. Thực trạng đó không đổ lỗi cho dân, cũng không đổ lỗi cho nhà khoa học được, rõ ràng là do bộ máy và do những người lãnh đạo.
Nhưng tôi không nản đâu, sức mình làm được đến đâu thì cứ tiếp tục làm, rồi con cháu, học trò, người dân ở những nơi mình đã đến… Mỗi người cùng góp một chút nhận thức, một chút kiến thức, một chút hành động thì cả cộng đồng sẽ khác. Vì vấn đề môi trường, suy cho cùng, là của cộng đồng, của cả nhân loại cơ mà.

Theo Hanoigreen

SỰ TÀN NHẪN VÀ VÔ NHÂN ĐẠO



Tôi không có dịp đi nước ngoài nhiều, nên không biết ở ngoài người ta có hệ thống chăm sóc sức khỏe cho lãnh đạo hay không. Nhưng nhìn từ góc độ y đức tôi thấy chuyện dành ra một tài khoản và ban bệ chỉ để lo chuyện sức khỏe cho lãnh đạo thật là vô minh.
Thời còn làm trong bệnh viện nhà nước tôi chứng kiến nhiều cảnh đau lòng. Thường dân không có thuốc phải nằm chờ chết. Cán bộ cao cấp thì được lệnh mua thuốc ngoại, giá bao nhiêu cũng được duyệt.
Thường dân nằm la liệt hành lang bệnh viện. Cán bộ nằm phòng có máy lạnh. Đó là thời 79-85. Nhưng thời nay cũng chẳng có gì khác. Cũng như giữa giàu và nghèo, khoảng cách giữa dân và quan càng ngày càng lớn. Quan thì giàu, dân thì nghèo.
Người ta nói một chuyện làm một chuyện khác. Nói xóa bỏ giai cấp, nhưng lại tạo nên một giai cấp ăn trên ngồi trước. Nói là đầy tờ nhân dân, nhưng trong thực tế là cha mẹ nhân dân. Ngôn ngữ dưới thời XHCNVN không còn ý nghĩa thật của nó nữa.
Sài Gòn có bệnh viện Thống Nhất dành cho lãnh đạo. Nhưng ít ai biết rằng bất cứ tỉnh nào cũng có một khu trong bệnh viện chỉ dành cho lãnh đạo. Phải bao nhiêu tuổi đảng mới được nằm ở các khu đặc trị đó.
Tôi không có vinh dự điều trị cho các vị lãnh đạo vì tôi đoán lý lịch của mình không “sạch” mấy (do học y thời trước 75). Nhưng tôi được biết đồng nghiệp điều trị cho các lãnh đạo than trời lắm. Họ nói các vị lãnh đạo coi bác sĩ chẳng ra gì, đối xử với bác sĩ như là cấp trên và cấp dưới. Chán lắm. Bực tức lắm. Nhưng nhiệm vụ và y đức thì phải làm, chứ chẳng ai ham làm trong các khu đặc trị cho lãnh đạo cả.
Thật ra, mấy khu đặc trị là những khu nguy hiểm trong bệnh viện. Dù trang bị tốt hơn các khu khác, nhưng tử vong vẫn cao trong mấy khu đặc trị. Lý do đơn giản là bác sĩ chẳng dám quyết định gì cả. Cái gì cũng hỏi cấp trên.
Có lẽ nhiều người không biết, nhưng có ca phải hỏi ý kiến… cấp ủy. Không có hệ thống y khoa nước nào quái đản như nước ta, bác sĩ xin ý kiến cấp ủy để điều trị !?!
Có cụ bị để nằm cho đến chết vì chẳng ai dám quyết định, ai cũng sợ trách nhiệm. Có lần tôi tham dự hội chẩn về một trường hợp và bị ám ảnh lâu dài về hệ thống y tế dưới thời XHCN. Ông cụ không phải là cán bộ cao cấp, nhưng là bố của một ông thứ trưởng, nên cũng được nằm khu dành cho lãnh đạo. Ông cụ bị cao huyết áp và tiểu đường, bệnh rất hay gặp.
Người ta hội chẩn mãi, xin ý kiến mãi, thậm chí ông thứ trưởng bay vào Sài Gòn thăm bố. Chẳng ai dám làm gì! Ba tuần sau, ông cụ qua đời. Chính cái hệ thống phân biệt đối xử và giai cấp làm cho ông cụ chết.
Chính cái hệ thống đó đang giết người dân nữa. Đọc blog thấy có tin Thanh Hóa “đầu tư xây dựng trụ sở Ban Bảo vệ – Chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh Thanh Hóa“. Có cái gì ghê tởm ở đây. Chúng ta biết rằng người dân Thanh Hóa đang đói. Gần 250.000 người đói. Vậy mà người ta thản nhiên xây tập trung tiền bạc vào việc chăm sóc sức khỏe cán bộ !?!
Đâu chỉ Thanh Hóa mới lo chăm sóc sức khỏe cán bộ. Trung ương cũng thế. Chẳng những huy động, mà còn huy động toàn hệ thống. Thử đọc bản tin Huy động sức mạnh của toàn hệ thống trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ thì biết người ta muốn gì. Đọc bản tin đó gần chục lần tôi vẫn không giải thích được tại sao người ta lại vô cảm, ngạo mạn, ngang nhiên, trắng trợn như thế.
Trong khi bệnh viện các cấp quá tải, trong khi hai ba bệnh nhân phải nằm chung giường, trong khi bệnh nhân nằm ghế bố la liệt ngoài hành lang, mà có một giai cấp ngang nhiên huy động toàn hệ thống để chăm sóc cho một nhúm cán bộ đảng viên.
Họ xem bệnh viện, bác sĩ, y tá, chuyên gia như là tài sản của riêng họ, muốn làm gì thì làm. Không hiểu trong lịch sử nước nhà, đã có một giai cấp thống trị nào chẳng những bất tài mà còn tàn nhẫn với người dân như hiện nay. Tìm hoài trong cổ sử mà chưa thấy.
Tạm thời có thể nói đảng viên là giai cấp tàn nhẫn nhất với người dân trong lịch sử Việt Nam ??

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.

Ảnh và Bài từ FB Bảo Vệ Ca

Get paid to share your links!